Điện tâm đồ là một kỹ thuật y khoa rất có giá trị, dùng để chẩn đoán và định khu vị trí tắc nghẽn động mạch vành của bệnh lý thiếu máu cơ tim. Mặt khác, điện tâm đồ cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình theo dõi và đánh giá tiến triển của việc tái thông mạch vành trong nhồi máu cơ tim có ST chênh lên.
1. Điện tâm đồ là gì?
Điện tâm đồ ECG là phương pháp theo dõi hoạt động, tốc độ và nhịp điệu của tim. Khi tim hoạt động co bóp sẽ phát ra các biến thiên của dòng điện. Điện tâm đồ là đường cong có chức năng ghi lại các biến thiên đó. Thông qua điện tâm đồ, bác sĩ có thể biết được khả năng tống máu của tim, nhịp điệu và tốc độ của tim.
Các chuyển đạo sẽ khảo sát từng vùng cơ tim khác nhau
V1, V2: “nhìn vào” trước vách liên thất.
V3, V4: “nhìn vào” vùng trước mỏm tim.
V5, V6: “nhìn vào” thành bên thấp thất trái.
D1, aVL: “nhìn vào” thành bên cao thất trái.
V7, V8, V9: “nhìn vào” thành sau thất trái.
D2, D3, aVF: “nhìn vào” thành dưới thất trái.
V3R, V4R: “nhìn vào” thất phải.
Điện tâm đồ thiếu máu cục bộ cơ tim
- ST chênh xuống.
- Sóng T đảo hướng trở nên âm, đối xứng
- Sóng Q bệnh lý: Sóng Q sâu > 2mm, rộng > 0.04s, đây là dấu hiệu muộn sau nhồi máu cơ tim.
Nếu không phát hiện được đoạn ST chênh lên thì những thay đổi điện tâm đồ theo thời gian hoặc khi hồi phục như: ST chênh xuống, ST chênh lên thoáng qua, sóng T đảo chiều cũng rất có giá trị chẩn đoán thiếu máu cơ tim. Tuy nhiên, có đến 20% trường hợp thiếu máu cơ tim không có biến đổi trên điện tâm đồ. Do vậy, việc theo dõi diễn biến của sự biến đổi điện tâm đồ theo diễn tiến của cơn đau thắt ngực và triệu chứng thiếu máu cơ tim là vô cùng cần thiết.
Điện tâm đồ thiếu máu cơ tim sẽ được làm lại sau 90 phút trong những trường hợp dùng thuốc tiêu sợi huyết hoặc làm ngay sau khi can thiệp động mạch vành qua đường ống thông để đánh giá mức độ tái thông và tái tưới máu của động mạch vành.
2. Điện tâm đồ nhồi máu cơ tim cấp
- Thiếu máu cơ tim: sóng T dương cao hoặc âm nhọn, đối xứng.
- Dấu hiệu hoại tử cơ tim: Xuất hiện sóng Q mới (rộng ít nhất 40 ms hoặc sâu ≥ 1⁄4 sóng R) ở 1 trong số các miền chuyển đạo sau: D2, D3 và aVF; V1 đến V6; D1 và
- Đoạn ST chênh lên hoặc chênh xuống ở 1 trong số các miền chuyển đạo kể trên.
Các giai đoạn của nhồi máu cơ tim
- Giai đoạn tối cấp: trong 24 giờ đầu, đoạn ST chênh lên, cong vòm, T cao nhọn lẫn vào đoạn ST
- Giai đoạn cấp: trong 1, 2 ngày đầu, sóng cong vòm, có thể đã xuất hiện sóng Q bệnh lý, QT dài ra, ST giảm chênh lên, sóng T âm hơn.
- Giai đoạn bán cấp: Từ vài ngày đến vài tuần là giai đoạn hay gặp nhất, đoạn ST chênh lên thấp hơn, T âm sâu, nhọn, đối xứng. Đồng thời thấy sóng Q bệnh lý rõ rệt và đoạn QT dài ra. Trong giai đoạn này thường xuất hiện các loại rối loạn nhịp tim hay blốc nhĩ – thất, đặc biệt là ở loại nhồi máu vùng vách (liên thất).
- Giai đoạn mạn tính: Từ vài tháng đến vài năm, ST trở về đẳng điện, T có thể dương trở lại, còn Q bệnh lý thì thường hay tồn tại vĩnh viễn.
3. Các loại nhồi máu cơ tim
Các dấu hiệu nói trên không phải luôn luôn xuất hiện ở tất cả các chuyển đạo như nhau mà chỉ thấy rõ ở chuyển đạo nào có điện cực đặt trúng (trực tiếp) lên trên vùng cơ tim bị nhồi máu, gọi là hình ảnh trực tiếp. Trái lại, chuyển đạo nào có điện cực đặt ở vùng xuyên tâm đối của vùng bị nhồi máu sẽ thu được những dấu hiệu trái ngược, “soi gương” của các dấu hiệu trên hay hình ảnh gián tiếp.
Nhồi máu có thể xuất hiện ở nhiều vùng rộng hẹp khác nhau của thất trái (thất phải rất ít khi bị). Tùy theo vùng bị tổn thương, người ta chia 3 loại chính và hay gặp nhất (dưới thượng tâm mạc) với các dấu hiệu ở giai đoạn 2 (bán cấp) sau đây:
- Nhồi máu trước vách (antero – septal infarction): thành trước thất trái và phần trước vách liên thất. Hình ảnh sóng QS, ST chênh lên, T âm ở V2, V3, V4. Đôi khi sóng T thấp hoặc âm ở V5, V6, aVL, D1 (T1>T3) do vùng bị thiếu máu ăn lan sang thành bên (trái) của tâm thất trái.
- Nhồi máu trước – bên (Lateral wall infarction) ở phần ngoài thành trước và thành bên của thất trái. Hình ảnh Q sâu và rộng, ST chênh lên, T âm sâu ở V5, V6, D1, aVL. Đoạn ST chênh xuống, T dương rất cao ở D3, đôi khi aVF.
- Nhồi máu sau – dưới (Posterior infarction): ở thành sau và dưới của thất trái. Hình ảnh Q sâu, rộng, ST chênh lên, T âm sâu ở D2, D3, aVF. Hình ảnh gián tiếp: T dương cao, có thể nhọn, đối xứng, ST có thể chênh xuống ở V1, V2, V3, V4.
- Nhồi máu dưới nội tâm mạc (thất trái) (Subendocardial infarction): Chủ yếu là thành trước – bên: ST chênh xuống, đôi khi T biến dạng ở V5, V6, D1, aVL. Đôi khi là thành sau dưới đoạn ST chênh xuống ở D3, D2, aVF.
3.1. Đoạn ST chênh lên ở vị trí nào sẽ cho biết vị trí nhồi máu cơ tim
V1, V2: nhồi máu cơ tim vùng trước vách.
V3, V4: nhồi máu cơ tim vùng trước mỏm.
V1, V2, V3, V4: nhồi máu cơ tim trước vách mỏm.
V5, V6: nhồi máu cơ tim thành bên thấp.
D1, aVL: nhồi máu cơ tim thành bên cao.
V5, V6, D1, aVL: nhồi máu cơ tim thành bên.
V3, V4, V5, V6: nhồi máu cơ tim trước bên.
Từ V1 đến V6, kèm D1, aVL: nhồi máu cơ tim vùng trước rộng.
D2, D3, aVF: nhồi máu cơ tim thành dưới (vùng hoành)
V7, V8, V9: nhồi máu cơ tim thành sau.
D2, D3, aVF kèm V7, V8, V9: nhồi máu cơ tim sau dưới.
V3R, V4R: nhồi máu cơ tim thất phải.
3.2. Trường hợp biến đổi điện tâm đồ không do bệnh động mạch vành
- Viêm màng ngoài tim cấp.
- Rối loạn điện giải: tăng Kali máu.
- Ngộ độc Digoxin.
- Hội chứng WPW.
- Hội chứng Brugada.
- ST chênh lên trong chấn thương sọ não.
- Sử dụng máy tạo nhịp.
Điện tâm đồ là một kỹ thuật y khoa rất có giá trị, dùng để chẩn đoán và định khu vị trí tắc nghẽn động mạch vành của bệnh lý thiếu máu cơ tim. Ngoài ra, chúng cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình theo dõi và đánh giá tiến triển của việc tái thông mạch vành trong nhồi máu cơ tim có ST chênh lên. Vì thế bệnh nên nên chọn các địa chỉ thăm khám uy tín, có chuyên môn tốt để thực hiện phương pháp này, từ đó đưa ra kết quả, bác sĩ sẽ nhận định phác đồ điều trị tốt nhất cho bệnh nhân.
Nguồn: Vinmec.